Theo đó, ung thư phát sinh do rối loạn bên trong cơ thể bao gồm các rối loạn nội tiết, tổn thương gene có tính di truyền, hay còn gọi là các nguyên nhân nội sinh. Ngược lại, các bệnh ung thư phát sinh liên quan trực tiếp từ môi trường sống bao gồm lối sống thiếu khoa học, các thói quen xấu như hút thuốc, uống rượu, chế độ dinh dưỡng không hợp lý. Thêm vào đó là một số yếu tố do bệnh nghề nghiệp và ô nhiễm môi trường, gọi chung là các nguyên nhân ngoại sinh (từ bên ngoài cơ thể).
Có thể chia các nguyên nhân ngoại sinh thành 4 nhóm chính sau đây:
Nhóm các tác nhân hóa học: Trong nhóm này, hút thuốc lá là nguyên nhân của 30% trong tổng số các loại ung thư ở người, bao gồm ung thư phổi, thanh quản, thực quản, khoang miệng, bàng quang, tụy, dạ dày. Trong khói thuốc, ngoài chất nicotin ảnh hưởng lên hệ tim mạch còn có trên 40 loại hóa chất khác nhau gây ung thư. Trong các chất độc khác nhau phải kể đến benzopyren – loại chất có khả năng 100% gây ung thư trên thực nghiệm. Người hút thuốc có nguy cơ mắc và chết do ung thư phổi và thanh quản cao gấp 10 đến 30 lần so với người không tiếp xúc với khói thuốc. Hút thuốc ở tuổi càng trẻ, thời gian hút càng dài, số lượng thuốc hút trong một ngày càng nhiều càng có nguy cơ cao.
Ở Việt Nam, hút thuốc lào, ăn trầu thuốc cũng là yếu tố gây ung thư phổi và ung thư khoang miệng. Nếu người vừa hút thuốc vừa nghiện rượu thì nguy cơ mắc ung thư càng cao hơn nữa. Người đang hút thuốc mà bỏ hút thì nguy cơ bị ung thư sẽ giảm dần theo thời gian. Sau 5 năm ngừng hút, nguy cơ bị ung thư phổi giảm 50%, sau 10 năm ngừng hút, nguy cơ không còn đáng kể, gần như người không hút. Những người không hút thuốc nhưng sống hoặc làm việc trong môi trường với người hút thuốc cũng có nguy cơ mắc các loại bệnh liên quan đến thuốc lá như chính người hút, nhất là đối với phụ nữ và trẻ em.
Nhóm nguy cơ do chế độ ăn uống và ô nhiễm vệ sinh an toàn thực phẩm: Chế độ ăn nhiều chất mỡ động vật, ít chất xơ làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại – trực tràng và ung thư vú. Ngược lại chế độ ăn ít chất béo, nhiều rau, hoa quả và các ngũ cốc dạng nguyên hạt, có thể làm giảm nguy cơ mắc các loại ung thư.
Các chất bảo quản thực phẩm, các chất nhuộm màu thực phẩm có nguồn gốc hóa học, các chất trung gian chuyển hóa và sinh ra từ thực phẩm bị nấm mốc, lên men là nguyên nhân gây ra nhiều loại ung thư đường tiêu hóa như ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư đại tràng… Ước tính loại nguyên nhân này gây ra đến 35% trong tổng số các loại ung thư.
Thịt hun khói, cá muối, các loại mắm và dưa muối, cà muối, nhất là dưa khú có nhiều muối nitrat, nitrit và nitrosamin là các chất gây ung thư thực quản và dạ dày.
Gạo và lạc là 2 loại thực phẩm dễ bị nấm mốc xâm nhiễm và tiết ra một loại chất độc là aflatoxin, chất này gây ra ung thư gan nguyên phát.
Ở nước ta, thuốc trừ sâu diệt cỏ cũng là yếu tố nguy cơ gây ung thư vú và một số loại ung thư khác. Bên cạnh đó hậu quả của chất độc màu da cam trong chiến tranh đã để lại hậu quả nặng nề không những gây nên các bệnh về dị tật bẩm sinh mà còn là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn gây nhiều bệnh ung thư.
Các loại ung thư gây ra do nghề nghiệp thường xảy ra ở cơ quan tiếp xúc trực tiếp như da, hệ thống hô hấp và hệ tiết niệu, ví dụ: ung thư bàng quang ở những người thợ nhuộm có tiếp xúc với chất anilin trong phẩm nhuộm, ung thư phổi ở những công nhân khai thác mỏ a-mi-ăng, làm việc tiếp xúc với chất thạch tín, ung thư máu ở những người tiếp xúc với chất ben-zen, ung thư thanh quản ở những người tiếp xúc với khí mù tạc…
Nhóm các tác nhân vật lý: Gồm các bức xạ ion hóa như tia phóng xạ phát ra từ các máy chiếu chụp Xquang và các chất phóng xạ dùng trong y học và một số ngành khoa học, có khả năng gây tổn thương gene và sự phát triển tế bào khi bị chiếu xạ. Tác động của tia phóng xạ gây ung thư phụ thuộc vào tuổi tiếp xúc: càng nhỏ tuổi càng nguy hiểm (nhất là khi còn là bào thai), liều lượng tiếp xúc càng nhiều thì nguy cơ mắc ung thư càng cao và các cơ quan nhạy cảm với tia phóng xạ như tuyến giáp, tủy xương. Ngoài ra, tia cực tím có trong ánh sáng mặt trời cũng là tác nhân gây ung thư da.
Nhóm tác nhân sinh học: Bao gồm một số virut, vi khuẩn. Có 3 loại virut điển hình có liên quan nhiều tới ung thư là: virut Epstein-Barr (EBV) liên quan đến ung thư vòm mũi họng, ung thư hạch lymphô. Virut viêm gan B là nguyên nhân gây ung thư gan nguyên phát, sau khi thâm nhập cơ thể sẽ gây viêm gan cấp, sau đó là xơ gan và ung thư gan. Việc phát hiện virut viêm gan B là nguyên nhân quan trọng gây ung thư gan đã mở ra một hướng phòng bệnh hữu hiệu là tiêm chủng chống viêm gan b phòng ung thư gan. Virut gây u nhú là loại virut lây truyền qua đường tình dục, được coi là nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung, rất phổ biến ở phụ nữ Việt Nam, bệnh có tỷ lệ mắc cao ở phụ nữ có quan hệ tình dục sớm, đẻ nhiều và có nhiều bạn tình.
Ngoài ra, vi khuẩn Helicobacter Pylory (HP) được coi là đóng vai trò quan trọng trong gây bệnh viêm loét dạ dày – tá tràng và ung thư dạ dày. Đây cũng là loại ung thư khá phổ biến ở Việt Nam./.
Theo đó, ung thư phát sinh do rối loạn bên trong cơ thể bao gồm các rối loạn nội tiết, tổn thương gene có tính di truyền, hay còn gọi là các nguyên nhân nội sinh. Ngược lại, các bệnh ung thư phát sinh liên quan trực tiếp từ môi trường sống bao gồm lối sống thiếu khoa học, các thói quen xấu như hút thuốc, uống rượu, chế độ dinh dưỡng không hợp lý. Thêm vào đó là một số yếu tố do bệnh nghề nghiệp và ô nhiễm môi trường, gọi chung là các nguyên nhân ngoại sinh (từ bên ngoài cơ thể).
Có thể chia các nguyên nhân ngoại sinh thành 4 nhóm chính sau đây:
Nhóm các tác nhân hóa học: Trong nhóm này, hút thuốc lá là nguyên nhân của 30% trong tổng số các loại ung thư ở người, bao gồm ung thư phổi, thanh quản, thực quản, khoang miệng, bàng quang, tụy, dạ dày. Trong khói thuốc, ngoài chất nicotin ảnh hưởng lên hệ tim mạch còn có trên 40 loại hóa chất khác nhau gây ung thư. Trong các chất độc khác nhau phải kể đến benzopyren – loại chất có khả năng 100% gây ung thư trên thực nghiệm. Người hút thuốc có nguy cơ mắc và chết do ung thư phổi và thanh quản cao gấp 10 đến 30 lần so với người không tiếp xúc với khói thuốc. Hút thuốc ở tuổi càng trẻ, thời gian hút càng dài, số lượng thuốc hút trong một ngày càng nhiều càng có nguy cơ cao.
Ở Việt Nam, hút thuốc lào, ăn trầu thuốc cũng là yếu tố gây ung thư phổi và ung thư khoang miệng. Nếu người vừa hút thuốc vừa nghiện rượu thì nguy cơ mắc ung thư càng cao hơn nữa. Người đang hút thuốc mà bỏ hút thì nguy cơ bị ung thư sẽ giảm dần theo thời gian. Sau 5 năm ngừng hút, nguy cơ bị ung thư phổi giảm 50%, sau 10 năm ngừng hút, nguy cơ không còn đáng kể, gần như người không hút. Những người không hút thuốc nhưng sống hoặc làm việc trong môi trường với người hút thuốc cũng có nguy cơ mắc các loại bệnh liên quan đến thuốc lá như chính người hút, nhất là đối với phụ nữ và trẻ em.
Nhóm nguy cơ do chế độ ăn uống và ô nhiễm vệ sinh an toàn thực phẩm: Chế độ ăn nhiều chất mỡ động vật, ít chất xơ làm tăng nguy cơ mắc ung thư đại – trực tràng và ung thư vú. Ngược lại chế độ ăn ít chất béo, nhiều rau, hoa quả và các ngũ cốc dạng nguyên hạt, có thể làm giảm nguy cơ mắc các loại ung thư.
Các chất bảo quản thực phẩm, các chất nhuộm màu thực phẩm có nguồn gốc hóa học, các chất trung gian chuyển hóa và sinh ra từ thực phẩm bị nấm mốc, lên men là nguyên nhân gây ra nhiều loại ung thư đường tiêu hóa như ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư đại tràng… Ước tính loại nguyên nhân này gây ra đến 35% trong tổng số các loại ung thư.
Thịt hun khói, cá muối, các loại mắm và dưa muối, cà muối, nhất là dưa khú có nhiều muối nitrat, nitrit và nitrosamin là các chất gây ung thư thực quản và dạ dày.
Gạo và lạc là 2 loại thực phẩm dễ bị nấm mốc xâm nhiễm và tiết ra một loại chất độc là aflatoxin, chất này gây ra ung thư gan nguyên phát.
Ở nước ta, thuốc trừ sâu diệt cỏ cũng là yếu tố nguy cơ gây ung thư vú và một số loại ung thư khác. Bên cạnh đó hậu quả của chất độc màu da cam trong chiến tranh đã để lại hậu quả nặng nề không những gây nên các bệnh về dị tật bẩm sinh mà còn là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn gây nhiều bệnh ung thư.
Các loại ung thư gây ra do nghề nghiệp thường xảy ra ở cơ quan tiếp xúc trực tiếp như da, hệ thống hô hấp và hệ tiết niệu, ví dụ: ung thư bàng quang ở những người thợ nhuộm có tiếp xúc với chất anilin trong phẩm nhuộm, ung thư phổi ở những công nhân khai thác mỏ a-mi-ăng, làm việc tiếp xúc với chất thạch tín, ung thư máu ở những người tiếp xúc với chất ben-zen, ung thư thanh quản ở những người tiếp xúc với khí mù tạc…
Nhóm các tác nhân vật lý: Gồm các bức xạ ion hóa như tia phóng xạ phát ra từ các máy chiếu chụp Xquang và các chất phóng xạ dùng trong y học và một số ngành khoa học, có khả năng gây tổn thương gene và sự phát triển tế bào khi bị chiếu xạ. Tác động của tia phóng xạ gây ung thư phụ thuộc vào tuổi tiếp xúc: càng nhỏ tuổi càng nguy hiểm (nhất là khi còn là bào thai), liều lượng tiếp xúc càng nhiều thì nguy cơ mắc ung thư càng cao và các cơ quan nhạy cảm với tia phóng xạ như tuyến giáp, tủy xương. Ngoài ra, tia cực tím có trong ánh sáng mặt trời cũng là tác nhân gây ung thư da.
Nhóm tác nhân sinh học: Bao gồm một số virut, vi khuẩn. Có 3 loại virut điển hình có liên quan nhiều tới ung thư là: virut Epstein-Barr (EBV) liên quan đến ung thư vòm mũi họng, ung thư hạch lymphô. Virut viêm gan B là nguyên nhân gây ung thư gan nguyên phát, sau khi thâm nhập cơ thể sẽ gây viêm gan cấp, sau đó là xơ gan và ung thư gan. Việc phát hiện virut viêm gan B là nguyên nhân quan trọng gây ung thư gan đã mở ra một hướng phòng bệnh hữu hiệu là tiêm chủng chống viêm gan b phòng ung thư gan. Virut gây u nhú là loại virut lây truyền qua đường tình dục, được coi là nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung, rất phổ biến ở phụ nữ Việt Nam, bệnh có tỷ lệ mắc cao ở phụ nữ có quan hệ tình dục sớm, đẻ nhiều và có nhiều bạn tình.
Ngoài ra, vi khuẩn Helicobacter Pylory (HP) được coi là đóng vai trò quan trọng trong gây bệnh viêm loét dạ dày – tá tràng và ung thư dạ dày. Đây cũng là loại ung thư khá phổ biến ở Việt Nam./.